Nghỉ Việc Khi Chưa Hết Hạn Hợp Đồng Có Được Không?
--- Bài mới hơn ---
Luật sư tư vấn: 1/ Cơ sở pháp lý
– Bộ Luật lao động năm 2012;
– Nghị định 95/2013/NĐ-CP, quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực lao động, bảo hiểm xã hội, đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng.
2/ Nghỉ việc khi chưa hết hạn hợp đồng có được không?
Điều 36 Bộ luật lao động năm 2012: Các trường hợp chấm dứt hợp đồng lao động, trong đó Khoản 9 có quy định như sau:
” Người lao động đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động theo quy định tại Điều 37 của Bộ luật này”
Điều 37. Quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động của người lao động
“1. Người lao động làm việc theo hợp đồng lao động xác định thời hạn, hợp đồng lao động theo mùa vụ hoặc theo một công việc nhất định có thời hạn dưới 12 tháng có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trước thời hạn trong những trường hợp sau đây: a) Không được bố trí theo đúng công việc, địa điểm làm việc hoặc không được bảo đảm điều kiện làm việc đã thỏa thuận trong hợp đồng lao động; b) Không được trả lương đầy đủ hoặc trả lương không đúng thời hạn đã thỏa thuận trong hợp đồng lao động; c) Bị ngược đãi, quấy rối tình dục, cưỡng bức lao động; d) Bản thân hoặc gia đình có hoàn cảnh khó khăn không thể tiếp tục thực hiện hợp đồng lao động; đ) Được bầu làm nhiệm vụ chuyên trách ở cơ quan dân cử hoặc được bổ nhiệm giữ chức vụ trong bộ máy nhà nước; e) Lao động nữ mang thai phải nghỉ việc theo chỉ định của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh có thẩm quyền;
g) Người lao động bị ốm đau, tai nạn đã điều trị 90 ngày liên tục đối với người làm việc theo hợp đồng lao động xác định thời hạn và một phần tư thời hạn hợp đồng đối với người làm việc theo hợp đồng lao động theo mùa vụ hoặc theo một công việc nhất định có thời hạn dưới 12 tháng mà khả năng lao động chưa được hồi phục.”
Như vậy, anh Quang hoàn toàn có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng với công ty với lý do: ” không được bảo đảm điều kiện làm việc đã thỏa thuận trong hợp đồng lao động” vì công ty đã không đáp ứng được việc tăng mức lương như thỏa thuận đã ghi trong hợp đồng với anh. Anh Quang đã thông báo cho công ty biết trước việc xin nghỉ của mình trước 1 tháng, việc này phù hợp với Khoản 2 Điều 37 Bộ luật lao động:
” 2. Khi đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động theo quy định tại khoản 1 Điều này, người lao động phải báo cho người sử dụng lao động biết trước:
a) Ít nhất 3 ngày làm việc đối với các trường hợp quy định tại các điểm a, b, c và g khoản 1 Điều này; b) Ít nhất 30 ngày nếu là hợp đồng lao động xác định thời hạn; ít nhất 03 ngày làm việc nếu là hợp đồng lao động theo mùa vụ hoặc theo một công việc nhất định có thời hạn dưới 12 tháng đối với các trường hợp quy định tại điểm d và điểm đ khoản 1 Điều này; c) Đối với trường hợp quy định tại điểm e khoản 1 Điều này thời hạn báo trước cho người sử dụng lao động được thực hiện theo thời hạn quy định tại Điều 156 của Bộ luật này.”
Khi chấm dứt hợp đồng, công ty phải thực hiện các công việc được quy định tại Điều 47. Bộ luật lao động về Trách nhiệm của người sử dụng lao động khi chấm dứt hợp đồng lao động:
3. Người sử dụng lao động có trách nhiệm hoàn thành thủ tục xác nhận và trả lại sổ bảo hiểm xã hội và những giấy tờ khác mà người sử dụng lao động đã giữ lại của người lao động.”
Vậy, công ty phải có trách nhiệm trả lại anh Bằng tốt nghiệp gốc đã giữ và sổ bảo hiểm xã hội cũng như những giấy tờ khác (nếu có). Hơn nữa, việc giữ bằng tốt nghiệp gốc của công ty là không đúng pháp luật, được quy định tại Điều 20 BLLĐ về những hành vi người sử dụng lao động không được làm khi giao kết, thực hiện hợp đồng lao động: ” Giữ bản chính giấy tờ tuỳ thân, văn bằng, chứng chỉ của người lao động.“. Đây là hành vi trái pháp luật, nhằm khống chế, giữ chân người lao động khi làm việc tại công ty, hành vi này sẽ bị xử phạt hành chính theo quy định tại khoản 2, Điều 5, Nghị định 95/2013/NĐ-CP, quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực lao động, bảo hiểm xã hội, đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng:
Nếu anh Quang không đồng ý với quyết định giải quyết khiếu nại lần 1 hoặc quá thời hạn giải quyết khiếu nại lần 1 mà vẫn không được giải quyết thì anh có quyền khiếu nại lần 2 đến Chánh Thanh tra Sở Lao động – Thương binh và Xã hội nơi NSDLĐ đặt trụ sở chính hoặc khởi kiện đến tòa án theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Nếu anh vẫn không đồng ý với quyết định giải quyết khiếu nại lần 2 hoặc quá thời gian giải quyết khiếu nại lần 2 thì NLĐ có quyền khiếu nại theo Luật Khiếu nại hoặc khởi kiện vụ án tại Tòa án theo quy định của pháp luật tố tụng hành chính.
--- Bài cũ hơn ---